Những thay đổi mới của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có lợi cho người lao động cần phải biết
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2016 với rất nhiều điểm mới quan trọng theo hướng có lợi cho NLĐ. Nhìn chung, các quy định về BHXH bắt buộc do đã có quá trình triển khai thực hiện và phát huy tác dụng tích cực trong việc bảo vệ NLĐ nên được Luật BHXH quy định cụ thể hơn và có những thay đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu của thực tiễn khách quan.
Ngày 20/11/2014, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) sửa đổi đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ Tám, gồm 09 Chương, 125 Điều, quy định chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của NLĐ, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan BHXH; Quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2016 với rất nhiều điểm mới quan trọng theo hướng có lợi cho NLĐ. Nhìn chung, các quy định về BHXH bắt buộc do đã có quá trình triển khai thực hiện và phát huy tác dụng tích cực trong việc bảo vệ NLĐ nên được Luật BHXH quy định cụ thể hơn và có những thay đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu của thực tiễn khách quan. Ngoài ra, với việc Chính phủ và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội kịp thời ban hành hai văn bản hướng dẫn là Nghị định 152/2006/NĐ-CP và Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH về bảo hiểm bắt buộc, vấn đề thực hiện bảo hiêm bắt buộc đối với NLĐ đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để triển khai trong thực tiễn.
Luật Bảo hiểm xã hội mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 quy định chi tiết hơn một số chính sách về BHXH hiện hành và bổ sung nhiều chính sách mới có lợi cho người lao động - Nguồn: Bộ LĐTBXH
Luật BHXH quy định cùng lúc ba chế độ BHXH là BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Việc quy định nhiều hình thức và chế độ bảo hiểm xã hội tại Luật BHXH là bước cụ thể hoá quy định trong Hiến pháp và Nghị quyết của Đảng về phát triển các loại hình bảo hiểm xã hội, từng bước mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, góp phần đáp ứng mục tiêu an sinh xã hội. Xây dựng và thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ là cơ sở pháp lý cho đông đảo NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội.
Cụ thể là những điểm đáng chú ý sau đây:
* Mở rộng đối tượng
So với Luật BHXH hiện hành, Luật BHXH sửa đổi năm 2014 đã bổ sung một số điểm mới, theo hướng có lợi hơn cho người lao động (NLĐ). Cụ thể, đối với những người tham gia BHXH bắt buộc: người làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và sẽ được thực hiện từ ngày 01/01/2018.
Luật BHXH (sửa đổi) lần này mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc gồm: NLĐ có hợp đồng lao động 01 - 03 tháng, NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Chính phủ và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. Luật hóa một số nhóm đối tượng đã được thực hiện theo các quy định hiện hành: học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;
*
Bổ sung thêm quy định về quyền lợi của NLĐ
Trước kia theo quy định tại Điều 36 NĐ 12/CP, Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia bảo hiểm xã hội trong đơn vị; trong đó 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; NLĐ đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. Đây là mức đóng áp dụng đối với những NLĐ thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc (tham gia HĐLĐ từ 3 tháng trở lên).
Theo quy định mới, NLĐ thuộc diện đóng BHXH bắt buộc trước mắt vẫn đóng với mức 5% tiền lương và tiền công hằng tháng; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng bằng là 8%; người sử dụng lao động hằng tháng sẽ đóng 3% vào quỹ ốm đau và thai sản, 1% vào quỹ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất (riêng với quỹ này từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%). Như vậy, tổng mức đóng hiện tại của người sử dụng lao động vẫn là 15% quỹ tiền lương (tiền công) đóng BHXH của NLĐ. Nhưng mức đóng sẽ tăng dần từ năm 2010 cho đến khi đạt mức 18% thì dừng lại.
Về chế độ thai sản, bổ sung quy định lao động nam có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 5 ngày làm việc đối với trường hợp sinh thường và 7 ngày làm việc đối với trường hợp sinh con phải phẫu thuật, đẻ dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày nếu sinh đôi và thên 3 ngày/01con nếu sinh 3 trở lên; 14 ngày nếu sinh 2 trở lên mà phải phẫu thuật; sửa đổi điều kiện hưởng chế độ thai sản trong trường hợp lao động nữ có thời gian đóng BHXH từ đủ 12 tháng nhưng vì lý do thai không bình thường phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì chỉ cần đảm bảo điều kiện đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con; sửa đổi thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi, bổ sung trường hợp lao động nam nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi được hưởng BHXH giống như lao động nữ nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi; sửa đổi quy định trong trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ; trường hợp mẹ đóng BHXH bắt buộc nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH theo quy định mà chết thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi; bổ sung quy định trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không có đủ sức khỏe để chăm sóc con có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo thẩm quyền thì người cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi; bổ sung trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH khi vợ sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 tháng tiền lương cơ sở cho mỗi con; tăng thêm 01 tháng cho thời gian lao động nữ nghỉ thai sản trong trường hợp con chết sau khi sinh; bổ sung quy định chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi.
- Về chế độ BHXH đối với người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp (TNLĐ/BNN).
Theo quy định tại Nghị định 12/CP, chế độ đối với người bị TNLĐ/BNN có thể là trợ cấp 1 lần đối với người suy giảm sức lao động từ 5%- 30% theo 3 mức từ 4, 8 hoặc 12 tháng lương tối thiểu; trợ cấp hàng tháng đối với người bị suy giảm từ 31%- 100% theo các mức từ 0,4 đến 1,6 mức lương tối thiểu. Cách tính này không thể hiện được nguyên tắc hưởng thụ theo đóng góp của BHXH, mà chỉ đảm bảo mức chi trả BHXH trên cơ sở mức suy giảm khả năng lao động của người bị tai nạn.
Nay theo cách tính mới, trợ cấp TNLĐ/BNN phải căn cứ vào hai yếu tố là tỷ lệ suy giảm sức lao động và đóng góp trước đó của người bị tai nạn. Cụ thể là, NLĐ hưởng trợ cấp 1 lần như sau: suy giảm 5% khả năng lao động được hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung; ngoài ra còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đóng BHXH, từ 1 năm trở xuống tính bằng 0,5 tháng lương liền kề của NLĐ, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3 tháng lương đóng BHXH liền kề. Mức trợ cấp hằng tháng (áp dụng đối với người suy giảm từ 31% sức lao động trở lên) được quy định như sau: Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung; Ngoài mức trợ cấp này, hằng tháng NLĐ còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
- Về chế độ hưu trí, luật BHXH và các văn bản hướng dẫn thi hành bảo hiểm xã hội
+ Điều kiện để được hưởng lương hưu hàng tháng quy định chặt chẽ hơn, cách tính tiền lương hưu (hằng tháng hoặc 1 lần) có sự thay đổi để đảm bảo NLĐ sẽ được hưởng chế độ hưu trí phù hợp với đóng góp trước đó của họ khi tham gia BHXH.
Cụ thể là, NLĐ khi đã đạt đến mức tối đa của lương hưu là 75%, họ sẽ được hưởng thêm tiền trợ cấp 1 lần khi nghỉ hưu mỗi năm là 0,5 tháng lương tương ứng với số năm tiếp tục tham gia BHXH của họ. Mức trợ cấp này theo Nghị định 12/CP tối đa là 5 tháng lương (tương ứng với 10 năm tiếp theo tham gia BHXH). Theo luật BHXH, mức này không bị khống chế tối đa mà được tính căn cứ số năm tham gia BHXH của NLĐ sau khi đã tính đủ tỷ lệ 75% lương hưu (đối với nam tính từ năm thứ 31 trở đi, đối với nữ tính từ năm thứ 26 trở đi).
+ Cách tính chế độ hưu trí 1 lần đối với NLĐ chưa đủ điều kiện hưởng hưu trí hàng tháng cũng có sự thay đổi. Trước kia, theo Nghị định 12/CP, mỗi năm tham gia BHXH NLĐ được hưởng 1 tháng lương. Nay theo Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn thi hành, mức này tăng lên 1,5 tháng lương đối với mỗi năm tham gia BHXH.
Cụ thể: NLĐ nghỉ việc hưởng lương hưu trước ngày 01/01/2018 thì cách tính lương hưu vẫn thực hiện như quy định của Luật BHXH hiện hành. NLĐ nghỉ việc hưởng lương hưu từ ngày 01/01/2018 trở đi, thì mức lương hưu được tính: Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm, sẽ được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH.
+ Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi thì 15 năm đóng BHXH được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH, NLĐ (cả nam và nữ) được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%. Đối với NLĐ nghỉ hưu trước tuổi quy định do suy giảm khả năng lao động, mức lương hưu hằng tháng giảm trừ 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định.
+ Ngoài sửa đổi về cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu như đã nêu ở trên, Luật BHXH sửa đổi năm 2014 còn có một số sửa đổi hướng tới bảo đảm sự công bằng, bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH giữa NLĐ trong khu vực Nhà nước và ngoài Nhà nước, cũng như bảo đảm nguyên tắc đóng - hưởng, hướng tới mục tiêu bảo đảm khả năng cân đối quỹ hưu trí và tử tuất trong dài hạn.
Cụ thể: Sửa đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định theo hướng có lộ trình tiến tới tính bình quân toàn bộ thời gian đóng như NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.
Trong đó, đối với người bắt đầu tham gia BHXH trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì vẫn tính bình quân 5 năm, 6 năm, 8 năm hoặc 10 năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu như Luật BHXH năm 2006. Đối với người bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2019, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Đối với người bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/12/2024 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 20 năm cuối trước khi nghỉ hưu. Đối với người bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01/01/2025 trở đi thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian.
Như vậy, người sớm nhất có thể áp dụng cách tính toàn bộ quá trình phải là người nghỉ hưu từ năm 2045 trở đi.
Luật BHXH sửa đổi cũng quy định điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH theo hướng: Đối với người tham gia BHXH từ trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì việc điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH vẫn thực hiện như quy định hiện hành (điều chỉnh theo mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng chế độ hưu trí).
Đối với người bắt đầu tham gia BHXH từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, tiền lương đã đóng BHXH được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ áp dụng cho mọi NLĐ, không phân biệt NLĐ thuộc khu vực Nhà nước hay ngoài Nhà nước (người sớm nhất có thể áp dụng cách điều chỉnh này phải là người nghỉ hưu từ năm 2036 trở đi).
Cũng có một số điểm thay đổi về cách tính tiền mai táng phí và tiền tuất đối với người chết. Cụ thể là, tiền mai táng phí tăng từ 8 tháng tiền lương tối thiểu (theo Nghị định 12/CP) lên 10 tháng tiền lương tối thiểu (theo luật BHXH) để chi phí cho tang lễ của NLĐ bị chết. Tiền tuất hằng tháng đối với thân nhân người chết nếu đủ điều kiện hưởng tiền tuất hàng tháng có hai mức là 50% hoặc 70% mức lương tối thiểu/người/tháng (tuỳ thuộc vào việc những thân nhân này còn người trực tiếp nuôi dưỡng ngoài người đã chết hay không). Mức này theo quy định của Nghị định 12/CP là 40% và 70%. Tiền tuất 1 lần cũng tăng từ 1 tháng lương đối với mỗi năm đóng BHXH lên 1,5 tháng lương đối với mỗi năm đóng BHXH. Nhìn chung, sự thay đổi này đã thể hiện rõ quan điểm có tính định hướng khi xây dựng luật BHXH là bên cạnh mục đích tương trợ cộng đồng, luật BHXH phải đảm bảo NLĐ được hưởng BHXH theo đóng góp trước đó của chính họ.
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 trở đi, nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi, có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn do nghỉ hưu trước tuổi quy định.
Đối với BHXH tự nguyện bỏ quy định tuổi trần tham gia BHXH tự nguyện, bỏ quy định mức thu nhập đóng BHXH tự nguyện thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) để phù hợp với khả năng tham gia của người dân, quy định người tham gia có thể lựa chọn phương thức đóng BHXH tự nguyện một cách linh hoạt ngoài các phương thức đã quy định lần này cho phép có thể đóng một lần cho nhiều năm về sau hoặc một lần cho những năm còn thiếu để hưởng chế độ BHXH tự nguyện. Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho NLĐ tham gia BHXH tự nguyện.
Bổ sung Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu bổ sung cho chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng góp của NLĐ và người sử dụng lao động dưới hình thức tài khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn và tích lũy thông qua hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật. Các chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung do Chính phủ quy định (đây là chính sách mới trên cơ sở vừa nghiên cứu vừa tổ chức thực hiện sẽ có rất nhiều vấn đề thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết trong thời gian tới).
- Điều chỉnh chế độ hưu trí
Luật mới quy định lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu đối với những trường hợp suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Theo đó, sửa đổi điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên theo hướng: tăng dần mỗi năm 1 tuổi từ 01/01/2016 đến khi nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi trở lên (hiện nay là nam 50 và nữ 45 tuổi trở lên); đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì tuổi nghỉ hưu là nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi;
BHXH một lần:
Luật tăng mức trợ cấp BHXH một lần từ 1,5 tháng lên 2 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi.
Luật này cũng sửa đổi điều kiện hưởng BHXH một lần theo hướng hạn chế tối đa việc hưởng BHXH một lần, trừ một số trường hợp đặc biệt như: đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hợp pháp hoặc mắc các bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, nhằm giải quyết nhu cầu phần đông của NLĐ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 93/2015/QH13 (vẫn tiếp tục áp dụng Điều 55 Luật BHXH năm 2006 về quy định hưởng BHXH 1 lần, đồng thời giữ nguyên Điều 60 Luật BHXH năm 2014).
Sửa đổi quy định về mức phạt tiền lãi đối với số tiền chưa đóng, chậm đóng bằng 2 lần mức lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng BHXH (hiện nay bằng lãi đầu tư của quỹ BHXH).
Quy định này nhằm hạn chế tình trạng trốn đóng BHXH do mức lãi tương đối cao, đồng thời hạn chế được việc chậm đóng BHXH do người sử dụng lao động chiếm dụng tiền đóng BHXH để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh thay vì phải đi vay ngân hàng với lãi xuất cao hơn và thủ tục phức tạp hơn.
CATP Hà Tĩnh